Văn hóa tổ chức là gì là một trong những từ khóa được gg search nhiều nhất về chủ đề văn hóa tổ chức là gì. Trong bài viết này, odoovietnam.com.vn sẽ viết bài viết văn hóa tổ chức là gì? Tại sao có văn hóa tổ chức?
Văn hóa tổ chức là gì? Tại sao có văn hóa tổ chức?
Đề cập đến khái niệm “văn hoá tổ chức”, các nhà nghiên cứa vừa mới mang ra rất nhiều ý kiến không giống nhau. Trước khi hai khái niệm “văn hoá” và “tổ chức” dược ghép lại với nhau, vừa mới có hàng chục định nghĩa không giống nhau về “văn hoá”. Cụ thể là năm 1952, hai nhà nhân loại học Kroeber và Kluckhohn đang phân loại ra 164 nghĩa của từ “văn hoá”. Khi phối hợp “văn hóa” và “tổ chức” với nhau thì nghĩa của chúng vừa mới được khu biệt, hẹp lại rất nhiều nhưng tất nhiên cụm tử “văn hoá tổ chức” luôn luôn có rất nhiều định nghĩa khác nhau. Sau đây là một vài định nghĩa đa dạng đang được công bố, dùng rộng rãi.
1. Văn hoá của một xí nghiệp là hướng dẫn tìm hiểu và hành động hàng ngày của các member. Đó là điều mà các thành viên phải học và ít nhiều phải tuân theo để được đồng ý vào xí nghiệp đó. kiến thức theo nghĩa này gồm có một loạt các hành vi xử sự, các phương thức sản xuất, skill và kiến thức kỹ thuận ý kiến về kỹ luật, các thông lệ và thói quen thống trị, các mục đích của những người liên quan, phương pháp mua bán, phương pháp trả lương, quan niệm về các công việc không giống nhau niềm tin vào tính dân chủ trong các buổi bàn thảo, và những quy ước, điều cấm kỵ (Theo Jaques, 1952).
2. Nói đến văn hoá của một tổ chức là nói đến một hình thể duy nhất với các tiêu phù hợp, trị giá, tín ngưỡng, phương pháp đối xử… được thể hiện qua việc các thành viên link với nhau để sử dụng việc. Nét đặc biệt của một đơn vị cụ thể nào đó được thể hiện ở lịch sử của nó với những ảnh hưởng của hệ thống cũ, lãnh đạo cũ trong việc thiết lập con người. Điều này được chứng tỏ ở sự khác nhau giữa việc đi theo thói quen và luật lệ, hệ tư tưởng cũ và mới, cũng như những sự lựa chọn kế hoạch của toàn tổ chức (theo Eldrige và Crombie, 1974).
3. văn hóa tổ chức là một tụ họp những ý kiến chung của một group người. Những quan niệm này phần đông được các thành viên hiểu ngầm với nhau và chỉ thêm vào cho tổ chức của riêng họ. Các quan điểm này sẽ dược truyền cho các thành viên mới (Theo Louis, 1980).
4.Văn hoá là một hình thức của các tín ngưỡng và tham vọng của các member trong một tổ chức. Những tín ngưỡng và đam mê này tạo nên một nguyên tắc chung tác động mạnh mẽ đến việc tạo dựng các hành vi cá nhân và nhóm người trong đơn vị (theo Schwatz and Davis, 1981).
5. văn hóa tổ chức không chỉ là một mắt xích của chuỗi những phức tạp mà nó chính là toàn bộ chuỗi mớ bòng bong đó. kiến thức chẳng phải là một vấn đề của một đơn vị mà chính là hệ thống tổ chức đó. (Theo Pacanowsky và O’donnell Trujiuo, 1982)
6. Văn hoá tổ chức đủ sức được mô tả như một tập kết chung các tín ngưỡng, thông lệ, nền tảng giá trị, quy phù hợp hành vi cư xử và cách mua bán riêng của từng tổ chức. Những mặt trên sẽ quy định mô hình hoạt động riêng của đơn vị và mẹo cư xử của các member trong tổ chức(Tunstall, 1983).
7. “Văn hoá” là một thể loại của các giá thiết cơ bản – được phát minh, tìm hiểu, phát triển bởi một group khi họ học mẹo đối phó với các chủ đề liên quan đến việc thích nghi với bên ngoài và hội nhập với bên trong – đã phát huy chức năng và được coi giống như có hiệu lực và thành ra được truyền đạt cho các thành viên mới noi theo (Theo Schein, 1985).
8. Từ văn hoá ngầm nói đến các mẹo khác để tạo nên một hoạt động có tổ chức bằng phương pháp tác động lên ngôn ngữ, khái niệm, thói quen, luật lệ và các thông lệ xã hội khác tạo nên các tư tưởng, trị giá và tín ngưởng dẫn đến hành động.
9. Với tôi, từ văn hoá có nghĩa là các tín ngưỡng mà các nhà quan lý trong một doanh nghiệp thống nhất với nhau để điều hành doanh nghiệp. Những tín ngưỡng này thường vô hình nhưng chúng có tác động mạnh mẽ đến suy nghĩ và hành động của họ (theo Lorsch, 1986).
10. Thuật ngữ “văn hoá” chỉ những trị giá tín ngưỡng và quy tắc bên trong tạo thành hệ thống của nền móng quản lý của doanh nghiệp cũng như một loạt các thủ tục thống trị và hành vi cư xử minh chứng và củng cố cho những nguyên tắc cơ bản này (Denison, 1990).
11. Văn hoá tượng trưng cho một hệ thống độc lập bao gồm các giá trị và hướng dẫn cư xử chung trong một cộng đồng và có thiên hướng được duy trì trong một thời gian dài (Kotter và Heskett, 1992)
12. Văn hoá là “cách khắc phục công việc tại một kênh nào đó”. Đó là nét đặc trưng của mỗi tổ chức, là các thói quen, các quan niệm đang đa dạng (theo Drennan, 1992).
13. văn hóa là những tín ngưỡng, quan điểm và trị giá dã trở nên phổ biến và khá bền vững vừa mới tồn tại trong tổ chức (Wiuiams, 1993)
Các khái niệm này phản ánh những quan điểm rất không giống nhau về văn hoá. Ta đủ nội lực thấy có 2 luồng ý kiến: một cho rằng văn hoá là một hướng dẫn nói ẩn dụ và bên kia cho rằng văn hoá là một thực thể khách quan điểm “văn hoá chỉ là một từ mới nhất trong hàng loạt phép ẩn dụ được tăng trưởng để giải nghĩa cho các hoạt động của tổ chức” được Morgan (1986) cho biết một phương pháp thuyết phục trong quyển sách hình ảnh doanh nghiệp (Images of Organizaiton). Trong lĩnh vực tìm hiểu đơn vị, từ lâu người đọc đã nhận ra rằng các phép ẩn dụ cho phép chúng ta hiểu về các tổ chức dưới dạng các thực thể khó khăn khác. Lịch sử cho thấy có 2 trong số các phép ẩn dụ cần thiết nhất là “bộ máy” và “cơ quan”. Theo đó, những học giả sử dụng các phép ẩn dụ này đang đủ sức chỉ ra sự giống nhau giữa các đơn vị và các “bộ máy”, “cơ quan” ntn khi cho biết về bản chất của đơn vị con người. Các tử ẩn dụ khác được sử dụng để làm rõ thêm các khía cạnh của đơn vị đời sống bao gồm “sân khấu kịch” (Mangham and Overington, 1983), (vũ đài chính trị” (Pfeffer, 1981a) và “nhà tù tâm linh” (Marcuse,1955). Thực vậy, ít nhất thì cũng theo một nghĩa nào đó, chính thuật ngữ “tổ chức” là một phép ẩn dụ để nói về kinh nghiệm của sự hợp tác và kỷ luật tập thể (Smircic, 1983).
bên cạnh đó, phần đông quan điểm lại cho rằng văn hoá là một thực thể khách quan. Tuy có chung quan điểm này, song khi đề cập đến chi tiết thì họ lại có một loạt ý kiến riêng. Theo Pacanowsky and O/ Donnell Trujiuo (1982), một tố chức, theo nghĩa đen, chính là một nền văn hoá và toàn bộ các thứ có trong đơn vị bao gồm hệ thống, chính sách, thử tục và quy trình tiến hành chính là các nhân tố trong đời sống văn hoá của nó. Tuy đây là một lập luận giải chặt chẽ nhưng nhiều nhà lý luận luôn luôn phản đối quan điểm này, bởi vì nếu mọi thứ là văn hoá thì k thể dùng định nghĩa này để cho biết cho các góc cạnh khác trong hoạt động của tổ chức. Thực vậy, ý tưởng rằng các đơn vị là các nền văn hoá sẽ gần giống với quan niệm cho rằng văn hoá có thể được hiểu giống như một phép ẩn dụ dễ hiểu về các đơn vị. ngược lại, các học giả không giống như Schein (1985) vừa mới gợi ý rằng cách hiểu tốt nhất về văn hoá là: một tụ họp các xu hướng thiên về tâm lý (ông gọi là “những giả thiết cơ bản) mà các thành viên của một đơn vị sỏ hữu và khiến họ nghĩ suy và hành động theo những cách cụ thể. Trong khi quan điểm này được lan rộng, nhiều học giả trong đỏ có Eldridge và Crombie thừa nhận rằng các hành vi cư xử cũng cần thiết k kém. hướng dẫn lựa chọn định nghĩa văn hoá có quan hệ mật thiết đến phương pháp chúng ta nghiên cứu nó. Sau cùng, ta đủ sức đúc kết danh nghĩa về văn hoá đơn vị được thông qua trong cuốn sách này giống như sau: Nói đến văn hoá đơn vị là nói đến hình thức tín ngưỡng, giá trị và thói quen được tăng trưởng trong suốt quá trình lịch sử của đơn vị. Những điều này được thể hiện trong cách điều hành và hành vi cư xử cửa các thành viên.
Nguồn: https://www.chungta.com/