Kinh tế thị trường định hướng xhcn là gì là một trong những keyword được search nhiều nhất trên Google về chủ đề kinh tế thị trường định hướng xhcn là gì. Trong bài viết này, odoovietnam.com.vn sẽ viết bài viết Kinh tế thị trường định hướng xhcn là gì? Tại sao chúng ta cần phải hiểu về kinh tế thị trường định hướng xhcn?
Mục lục
Kinh tế thị trường định hướng xhcn là gì? Tại sao chúng ta cần phải hiểu về kinh tế thị trường định hướng xhcn?
Kinh tế thị trường là gì?
Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế hiện được nhiều quốc gia chọn để xúc tiến kinh tế phát triển. Viet Nam cũng không là ngoại lệ. Mặc dù luôn luôn đưa những đặc trưng của kinh tế thị trường nói chung nhưng kinh tế phân khúc ở VN có tính đặc thù riêng, là kinh tế đối tượng định hình không gian chủ nghĩa, không giống biệt về bản chất so với kinh tế đối tượng tư bản chủ nghĩa.
Nhân loại đang chứng kiến nhiều mô hình kinh tế không giống nhau như kinh tế tự nhiên, kinh tế tụ hội (kinh tế plan hóa) và kinh tế đối tượng, trong đó kinh tế đối tượng là mô hình được nhiều quốc gia chọn cho quá trình thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
đủ sức hiểu, kinh tế phân khúc là kiểu tổ chức nền kinh tế dựa trên các quy tắc và tuân thủ những quy luật của kinh tế phân khúc. Kinh tế phân khúc là mô ảnh kinh tế mở trong đó coi trọng và tuân thủ các quy luật vận động, điều tiết của đối tượng, tôn trọng tự do cạnh tranh, tự do cộng tác, mở rộng giao lưu thương mại, tạo thời cơ cho mọi chủ thể kinh tế tham dự thị trường, search lợi nhuận,…
Thực trạng nền kinh tế thị trường định hướng xhcn ở việt nam hiện nay
Ở Việt Nam, mặc dù đã có quan điểm manh nha về kinh tế thị trường từ Đại hội VI khi dựng lại thiết lập nền kinh tế hàng hoá nhiều nguyên nhân, không những thế phải đến Đại hội IX, thuật ngữ “phát triển kinh tế thị trường định dạng không gian chủ nghĩa (XHCN)” mới chính thức được sử dụng trong Văn kiện của Đảng.
Đại hội Đảng XI đang đưa vào cương lĩnh xây dựng quốc gia trong thời kì quá độ lên CNXH (Bổ sung, tăng trưởng năm 2011) ý kiến về thiết lập nền kinh tế thị trường định hình XHCN: “Phát triển kinh tế đối tượng định hướng XHCN với nhiều thể loại sở hữu, nhiều yếu tố kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối”(1), “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành hệ thống kiên cố của nền kinh tế quốc dân”(2), “Các nguyên nhân đối tượng được tạo lập đồng bộ, các loại đối tượng từng bước được thiết lập, tăng trưởng, vừa tuân theo quy luật của kinh tế đối tượng, vừa bảo đảm tính định hướng XHCN”(3).
tóm lại thực tiễn phát triển kinh tế đối tượng ở nước ta, tại Đại hội XI, Đảng ta đang thống nhất nhận thức về nền kinh tế phân khúc định hướng XHCN ở Việt Nam: “Đó là nền kinh tế phân khúc hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Viet Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; có quan hệ sản xuất tiến bộ thêm vào với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều yếu tố kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước làm vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực cần thiết của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các yếu tố kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; phân khúc làm vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các gốc lực nhà nước được phân bố theo kế hoạch, quy hoạch, kế hoạch thích hợp với cơ chế thị trường.
Nhà nước đóng vai trò định hình, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; dùng các công cụ, chính sách và các gốc lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết kinh tế, thúc đẩy sản xuất mua bán và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng không gian trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò của nhân dân trong tăng trưởng kinh tế – xã hội”(4).
Nội dung định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường
Mô ảnh kinh tế đối tượng định hình XHCN không hề là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế đối tượng và CNXH, mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại cho đến nay.
thực tiễn vừa mới cho thấy, những phương án và mô ảnh phát triển kinh tế phân khúc không giống nhau đưa tính đặc thù, phụ thuộc vào những điều kiện dựng lại, môi trường tăng trưởng cụ thể của đất nước – dân tộc.
Một quốc gia đi sau k nhất thiết phải áp dụng cứng nhắc các nguyên lý lý luận; cũng không nhất thiết phải rập khuôn các mô hình kinh tế đối tượng có sẵn ở bất cứ đâu đó, dù là mô ảnh kết quả, để giải quyết các vấn đề tăng trưởng đưa nhiều nét đặc thù của mình.
Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của niên đại và sự khái quát, đúc rút trải nghiệm phát triển kinh tế thị trường thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng CNXH ở Viet Nam để đưa ra chủ trương tăng trưởng nền kinh tế thị trường định hình XHCN, nhằm dùng kinh tế đối tượng để thực hiện mục đích từng bước quá độ lên CNXH.
Đây là một kiểu kinh tế phân khúc mới trong lịch sử tăng trưởng của kinh tế đối tượng. Nếu nói kinh tế đối tượng là “cái phổ biến”, thì kinh tế phân khúc định dạng XHCN là “cái đặc thù” của VN, thêm vào với điều kiện và đặc điểm cụ thể của Việt Nam.
5 đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường định hướng xhcn ở việt nam
Từ quan niệm của Đảng đủ sức hiểu, tính đặc thù của kinh tế phân khúc định hình XHCN ở VN được thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, đó làmô hình kinh tế phân khúc hỗn hợp, vừa vận hành theo cơ chế phân khúc, vừa có sự điều tiết của nhà nước.
Nền kinh tế đối tượng ở Viet Nam không phải là cái khác biệt mà đó vẫn là “nền kinh tế vận hành đa số, đồng bộ theo các quy luật khách quan của kinh tế thị trường” giống như quy luật tự do cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá trị; thực hiện tự do hoá thương mại,…
Các quy tắc, thông lệ quốc tế trong quản lý và điều hành kinh tế được tuân thủ và áp dụng một mẹo phù hợp, linh động. “Thị trường làm vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có kết quả các gốc lực phát triển; là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất”(5).
phân khúc cũng chính là cơ chế chủ yếu thực hiện phân phối các kết quả của phát triển kinh tế, trong đó doanh thu của mỗi người được tạo dựng trên cơ sở và phù hợp với kết quả lao động cũng giống như mức đóng góp về các gốc lực trong quá trình tạo ra của cải xã hội.
bên cạnh đó, nền kinh tế thị trường đó không hề là kinh tế phân khúc tự do mà có sự điều tiết, thống trị của nhà nước XHCN Việt Nam, bảo đảm định dạng XHCN nền kinh tế thích hợp với từng giai đoạn tăng trưởng của đất nước trên quy tắc tuân thủ và tôn trọng các nguyên tắc của đối tượng.
Nhà nước cai quản, điều hành nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, luật pháp, và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế nhà nước; thực hiện sự điều tiết ở tầm vĩ mô, “định hướng, thiết lập và hoàn thành thể chế kinh tế; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch” bảo đảm cho đối tượng tăng trưởng lành mạnh, tuân thủ các quy luật của kinh tế đối tượng, tương thích với thông lệ của các nước; “sử dụng các tool, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định dạng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển”(6).
Thông qua những chính sách kinh tế, những biện pháp tài chính quan trọng, nhà nước phát huy cao độ những mặt tích cực, những ưu điểm của nền kinh tế thị trường, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế phân khúc, giúp cho thị trường tăng trưởng mạnh mẽ hơn và lành mạnh hơn, bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Thứ hai, là mô hình kinh tế phân khúc với đa dạng các thể loại sở hữu và phổ biến các yếu tố kinh tế; đất đai thuộc sở hữu toàn dân.
Kinh tế phân khúc ở Viet Nam “có nhiều hình thức sở hữu, nhiều yếu tố kinh tế”. Các nguyên nhân kinh tế đều là bộ phận cấu thành cần thiết của nền kinh tế quốc dân, “cùng bình đẳng, cộng tác, cạnh tranh cùng phát triển”, trong đó “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực cần thiết của nền kinh tế”.
“Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để tăng trưởng một nền kinh tế độc lập, tự chủ”(7). Các nguyên nhân kinh tế đều hoạt động theo cơ chế phân khúc nhưng theo định dạng chung và khuôn khổ luật pháp của nhà nước XHCN.
Sự lựa chọn thông dụng các thể loại sở hữu là phù hợp với trình độ phát triển chưa đồng đều của lực lượng sản xuất ở Việt Nam ngày nay nhằm khai thác tối đa thế mạnh của mọi gốc lực kinh tế cho mục tiêu tăng trưởng.
Nhà nước coi trọng và giúp cho các thành phần kinh tế phát triển tự do, bình đẳng , “thực hiện nhất quán một chế độ pháp lý kinh doanh cho các công ty, k phân biệt thể loại sở hữu, yếu tố kinh tế”(8).
Trong đó, kinh tế nhà nước phải được củng cố và phát triển ở các vị trí then chốt của nền kinh tế, ở ngành an ninh quốc phòng, ở các ngành dịch vụ không gian cần thiết… Mà các yếu tố kinh tế không giống k có điều kiện hoặc k mong muốn đầu tư.
Kinh tế nhà nước là công cụ để Nhà nước thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô và định hướng XHCN nền kinh tế, đảm bảo các cân đối lớn cho nền kinh tế, kiểm soát các nguồn tài nguyên plan, phát triển các kết cấu hạ tầng và dịch vụ công có vốn đầu tư to, luân chuyển chậm, lợi nhuận k cao, rất quan trọng cho nền kinh tế – thế giới nhưng khu vực tư nhân k muốn đảm nhận;…
Kinh tế tư nhân là động lực cần thiết của nền kinh tế và sẽ được tạo các điều kiện phát triển, nhằm khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh của nguyên nhân kinh tế này cho thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. bên cạnh đó, nhà nước cũng thực hiện cai quản, định dạng thành phần kinh tế này theo những mục tiêu chung của quốc gia, đảm bảo hài hoà quyền lợi doanh nghiệp và quyền lợi của dân tộc.
Nền kinh tế thị trường định dạng XHCN ở VN dựa trên chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất cơ bản, “đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu”, thực hiện “công khai, minh bạch việc thống trị, sử dụng đất công; tăng cường giám sát, cai quản chặt chẽ, nâng cao kết quả dùng đất giao cho các cộng đồng và doanh nghiệp”(9).
giúp cho cho mục đích chung của toàn dân tộc và của nhân dân, “bảo đảm quyền cai quản, thu lợi của Nhà nước đối với tài sản công và quyền bình đẳng trong việc tiếp cận, dùng tài sản công của mọi chủ thể trong nền kinh tế”(10).
Thứ ba, việc cung cấp trong nền kinh tế thị trường định dạng XHCN ở Viet Nam được thực hiện trên quy tắc “chủ yếu theo hiệu quả lao động, hiệu quả kinh tế, cùng lúc theo mức đóng góp vốn cùng các gốc lực khác và phân phối thông qua nền tảng an sinh xã hội, phúc lợi xã hội”(11).
Nền kinh tế thị trường ở nước ta với đa dạng hình thức sở hữu, phổ biến yếu tố kinh tế, đa dạng phương thức sản xuất kinh doanh… do vậy cần phổ biến các hình thức cung cấp. Trong nền kinh tế đó, lao động trở thành cơ sở quyết định địa vị và phúc lợi vật chất của mỗi người.
do đó, phân phối theo lao động và kết quả kinh tế là thể loại cung cấp căn bản, là quy tắc cung cấp chủ yếu và thích hợp nhất, thêm vào với liên kết sản xuất của các thành phần kinh tế đã tồn tại ở nước ta.
tuy nhiên, thể loại cung cấp theo mức đóng góp vốn nhằm huy động tốt các gốc lực cho xây dựng rộng, phát triển sản xuất, xúc tiến phát triển kinh tế cũng là rất cần thiết và công bằng đối với các chủ thể kinh tế.
Mặt không giống, nền kinh tế phân khúc ở nước ta là nền kinh tế phân khúc theo định dạng XHCN với mục tiêu k chỉ dừng ở tốc độ phát triển kinh tế mà còn không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tốt các vấn đề an sinh xã hội,… thành ra, cung cấp lại thông qua nền tảng phúc lợi xã hội cũng là rất đúng đắn và hợp lý nhằm đảm bảo công bằng, bình đẳng trong xã hội, góp phần thực hiện các mục tiêu của nhà nước XHCN VN.
hơn nữa, tăng trưởng kinh tế đối tượng chúng ta cũng phải chấp thuận sự phân hóa doanh thu, phân hoá giàu nghèo ngày càng gia tăng, chấp thuận thực tế là sẽ có những nhóm người yếu thế, không đủ nội lực cạnh tranh trong vòng xoáy của cơ chế thị trường, gặp rủi ro…
Vai trò của Chính phủ là phải chú ý đến chủ đề đó, giới hạn phân hóa không gian sâu sắc… bằng hướng dẫn thực hiện tái cung cấp lại doanh thu không gian. Đây chính là nét ưu việt của chế độ phân phối trong nền kinh tế đối tượng định dạng XHCN ở VN.
Thứ tư, là nền kinh tế phân khúc do Đảng Cộng sản Viet Nam lãnh đạo, nhà nước pháp quyền XHCN Viet Nam quản lý, điều tiết vì mục đích “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Kinh tế thị trường ở VN là nền kinh tế đối tượng có tổ chức, có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Viet Nam và sự quản lý của Nhà nước XHCN Việt Nam, được định hình cao về mặt không gian, có mục đích đảm bảo tối đa lợi ích của đại đầy đủ nhân dân và thành đạt bền vững của đất nước; tôn trọng và tạo điều kiện cho các chủ thể kinh tế tự do phát triển song song thực hiện các biện pháp hữu hiệu để giới hạn những khuyết tật của tính tự phát phân khúc.
Nền kinh tế đó chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế XHCN mà nội dung căn bản là bảo đảm phúc lợi đầy đủ và thành công tự do, toàn diện của mọi member trong xã hội, vì ích lợi của đại đa số nhân dân, “bảo đảm mọi người đều được bình đẳng trong tiếp cận các thời cơ và điều kiện tăng trưởng, được tham dự và hưởng lợi từ quá trình phát triển”(12).
Nền kinh tế đối tượng định hình XHCN ở VN luôn được định dạng theo đuổi mục đích “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; huy động sức mạnh của mọi thành phần kinh tế cũng giống như của toàn không gian cho phát triển kinh tế, từng bước nâng cao đời sống cho đại bộ phận nhân dân.
không những thế, việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế không hề bằng mọi giá, nóng vội mà phải được cân nhắc tính toán cho thêm vào với điều kiện quốc gia theo hướng tăng trưởng nhanh, kết quả mà bền vững; gắn mục tiêu gia tăng tưởng kinh tế với bảo đảm độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, bảo vệ môi trường… Nói hướng dẫn khác, nền kinh tế thị trường đó không vì mục đích phát triển kinh tế mà hy sinh ích lợi quốc gia, độc lập dân tộc, huỷ hoại tài nguyên, nơi…
tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ, công bằng không gian trong từng bước, từng chính sách phát triển; Công bằng phải gắn với bình đẳng xã hội, công bằng không chỉ dừng ở cung cấp quyền lợi công bằng mà phải là công bằng về cơ hội phát triển – bảo đảm cho mọi member trong cộng đồng đều có thời cơ giống như nhau để phát triển, đều được thụ hưởng ích lợi chính đáng, công bằng từ những kết quả lao động và cống hiến thế giới của mình, song song có trách nhiệm đóng góp vào thành đạt thịnh vượng chung của dân tộc;… Đây chính là tính nhân văn, ưu việt riêng có của nền kinh tế phân khúc định dạng XHCN Viet Nam.
Thứ năm, là“nền kinh tế đối tượng hiện đại và hội nhập quốc tế”(13).
Đặc trưng này thể hiện nền kinh tế phân khúc mà nước ta xây dựng không phải là cái khác lạ đối với kinh tế đối tượng ở các nước, mà cũng là một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế thị trường toàn cầu, “kế thừa có tập hợp những thành tựu tăng trưởng kinh tế phân khúc của nhân loại”, “hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách và các yếu tố đối tượng, các loại thị trường đầy đủ, đồng bộ, vận hành thông suốt, gắn kết chặt chẽ với các nền kinh tế trên thế giới”(14), tuân thủ các nguyên tắc, quy ước, hiệp định, điều lệ, phù hợp mực chung của toàn cầu để phát triển, thực hiện tự do hóa trên phạm vi quốc tế trong các ngành nghề hợp tác thương mại, đầu tư, tài chính, dịch vụ, lao động, việc sử dụng, tham gia vào chuỗi giá trị và online sản xuất toàn cầu; thực hiện chuyển giao các thành tựu, phát minh, sáng chế khoa học công nghệ hiện đại với các quốc gia…
Nền kinh tế đối tượng ở nước ta vừa mới và vừa mới thực hiện quá trình hội nhập quốc tế, xây dựng rộng và tăng trưởng các mối gắn kết với các nước trong khu vực và trên toàn cầu nhằm tranh thủ nhiều thời cơ hợp tác, giúp đỡ về nhiều mặt từ các nước, đặc biệt là các đất nước phát triển; chủ động và tích cực, gấp rút và kết quả, tận dụng tốt những thời cơ, vận hội, phát huy tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước cho mục tiêu phát triển kinh tế, song song có những biện pháp gia tăng cấp độ dự phòng của nền kinh tế, ứng phó tốt với những rủi ro, thách thức của quá trình hội nhập.
Bản chất nền kinh tế thị trường định hướng xhcn
như vậy kinh tế phân khúc định hình XHCN ở Viet Nam sẽ mang những nét đặc thù và khác về bản chất với nền kinh tế đối tượng TBCN.
Một là, kinh tế đối tượng TBCN dựa trên chế độ sở hữu tư nhân TBCN, là nền kinh tế phân khúc giúp sức và bảo vệ cho ích lợi của thiểu số giai cấp tư sản. Kinh tế thị trường XHCN dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể có mục tiêu giúp cho quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, xóa bỏ chế độ áp bức, bóc lột.
Hai là, việc cung cấp trong nền kinh tế thị trường TBCN chủ yếu để ý đến quyền lợi của giới chủ tư bản, các tập đoàn kinh tế to, chứ chẳng hề hướng đến lợi ích của đa số tầng lớp nhân dân lao động.
Ngay cả việc thực hiện các chính sách phúc lợi xã hội trong nền kinh tế đối tượng TBCN cũng trên cơ sở quyền lợi của các “tầng lớp trên” đang được đảm bảo chứ không phải là mục tiêu hướng đến của kinh tế đối tượng TBCN. Trong thành đạt của kinh tế đối tượng TBCN, chủ đề công bằng xã hội chỉ được đặt ra khi mặt trái của cơ chế thị trường vừa mới làm gay gắt các chủ đề không gian, tạo ra rủi ro bùng nổ thế giới, đe dọa sự tồn tại của CNTB.
Việc thực hiện các chính sách phúc lợi, khắc phục các vấn đề xã hội của các chính phủ tư sản chỉ hạn chế trong khuôn khổ TBCN, chỉ được nhìn thấy là phương tiện để duy trì chế độ TBCN. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước chủ động ngay từ đầu việc khắc phục mối liên kết giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng thế giới. chủ đề công bằng không gian k chỉ là phương tiện để phát triển nền kinh tế thị trường mà còn là mục đích của chế độ xã hội mới.
Kinh tế đối tượng theo định hình XHCN không chỉ quan tâm đến tốc độ phát triển cao mà còn để ý mức sống thực tiễn của mọi tầng lớp dân cư đều được nâng lên, y tế, dạy bảo đều tăng trưởng, khoảng cách giàu – nghèo được thu hẹp, đạo đức, truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc được giữ vững, môi trường sinh thái được bảo vệ, ổn định thế giới được bảo đảm…
Ba là, trong cơ chế phân khúc TBCN, sự can thiệp của nhà nước nếu có thì cũng luôn mang thuộc tính tư sản với mục tiêu nhằm bảo đảm môi trường kinh tế – không gian thuận tiện cho sự thống trị của giai cấp tư sản, cho sự vững bền của chế độ bóc lột TBCN, kìm hãm những mâu thuẫn, xung đột xã hội tác động trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ TBCN.
Trong cơ chế phân khúc có sự thống trị của nhà nước theo định hình XHCN, thì sự can thiệp của nhà nước XHCN vào nền kinh tế lại nhằm bảo vệ ích lợi chính đáng của toàn thể nhân dân lao động, bảo đảm cho người khác dân đều được bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội và điều kiện tăng trưởng, được tham dự và hưởng lợi từ công cuộc phát triển.
Kinh tế thị trường theo định dạng XHCN là mô hình chưa có tiền lệ trong lịch sử. Song, với những đặc trưng ưu việt và mục tiêu tốt đẹp của nó, kinh tế phân khúc định dạng XHCN là một chọn tất yếu, thêm vào với bối cảnh niên đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới ngày nay.
bên cạnh đó, cần nhận thức rõ, quá trình xây dựng và hoàn thành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN là k dễ dàng, đó là quá trình lâu dài và trải qua nhiều giai đoạn, vừa khám phá, tăng trưởng k ngừng trong nhận thức luận giải, vừa phải linh động, sáng tạo trong thực tế, ứng phó tốt trước muôn vàn khó khăn, thách thức, đòi hỏi sự quyết tâm và đồng lòng của cả dân tộc cũng như sự tích cực, chăm chỉ thực hiện của các địa phương, ban ngành trong cả nước.
_______________________
(1), (2), (3) ĐCSVN Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.73, 73-74, 74.
(4) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị đất nước, Hà Nội, 2016, tr.25-26.
(5), (6), (7), (8), (9), (10), (11), (12), (13), (14) Nghị quyết số 11-NQ/TW,Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng kiềm hãm XII, http://www.dangcongsan.vn, ngày 9-6-2017.
Theo báo chí luận chính trị số 6-2018
nguồn: tapchitaichinh.vn