Quản lý nhà nước về văn hóa là gì là một trong những keyword được search nhiều nhất trên google về chủ đề quản lý nhà nước về văn hóa là gì. Trong bài viết này Odoovietnam.vn sẽ Tìm hiểu quản lý nhà nước về văn hóa là gì?
Mục lục
Tìm hiểu quản lý nhà nước về văn hóa là gì?
1. Quản lý không gian, cai quản nhà nước
“Quản lý xã hội là sự ảnh hưởng tiếp tục, có đơn vị, có chủ đích của chủ thể thống trị thế giới lên thế giới và các khách thể có liên quan, nhằm duy trì và tăng trưởng không gian theo các đặc trưng và các mục tiêu mà các chủ thể cai quản đặt ra thêm vào với xu thế phát triển khách quan của lịch sử”(1).
mong muốn tác động liên tục, có tổ chức, có chủ đích, người cai quản phải thực hiện 5 khâu quan trọng là: lập kế hoạch, đơn vị, chỉ đạo triển khai plan, điều chỉnh kế hoạch cho thích hợp với thực tiễn, check, làm chủ, nghiên cứu việc thực hiện plan.
Từ khái niệm về quản lý nói chung, đủ sức thấy hoạt động quản lý được thể hiện trong 5 thành tố: chủ thể thống trị, khách thể cai quản, mục đích quản lý, công cụ cai quản, công thức quản lý.
Căn cứ vào các thành tố cơ bản cấu thành hoạt động quản lý, đủ nội lực đưa ra khái niệm thống trị nhà nước đối với xã hội: “Quản lý nhà nước so với không gian là sự ảnh hưởng thường xuyên, có đơn vị, có chủ đích của Nhà nước bằng nền tảng luật pháp và bộ máy của mình nhằm điều chỉnh các hoạt động của mọi cơ quan, tổ chức, một mình trong không gian, hành vi của công dân, với mục đích duy trì và phát triển xã hội, bảo toàn và củng cố quyền lực nhà nước”(2).
Thành tố cần thiết nhất trong quản lý là chủ thể cai quản, quyết định mục đích, phương thức thống trị và lựa chọn công cụ quản lý. Bởi vậy, cai quản nhà nước có những đặc điểm: mang tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức cao; có mục tiêu chiến lược, chương trình và plan thực hiện mục tiêu; có tính chủ động, sáng tạo và linh động trong việc điều hành, kết hợp, huy động mọi lực lượng; có tính tiếp tục, tính tổ chức, tính thống nhất. mong muốn vậy bộ máy nhà nước phải ổn định, thống nhất từ trung ương đến địa phương; hệ thống luật pháp phải đồng bộ và hoàn thiện thêm vào với yêu cầu thực tiễn khách quan.
2. Kiến thức, quản lý nhà nước về kiến thức
văn hóa
kiến thức là một quá trình hoạt động của con người tự do, biến đổi thế giới tự nhiên thành thế giới tự nhiên thứ hai có cấu trúc cao hơn, có tính người, trong tiến trình đó con người tạo dựng thiên nhiên bên trong, đồng thời thể hiện thái độ ứng xử so với chính mình.
văn hóa là một cấu trúc toàn diện gồm ba hình thái: chuẩn mực, trị giá và biểu tượng. Bởi vậy, cần ý kiến rõ văn hóa như thế nào trong khuôn khổ của ngành nghề thống trị kiến thức, nó là khái niệm rộng hay hẹp, liệu kiến thức có phải là định nghĩa bậc trên của nghệ thuật giống như sân khấu, âm nhạc, nhảy múa hay văn học.Văn hóa là không gian sống của con người, là phương tiện kiến tạo cuộc đời của con người,hay kiến thức có tư cách là “hệ thống cấu trúc ý nghĩa cộng đồng, mà với những ý nghĩa này con người trải nghiệm, định nghĩa xử lý, thể hiện và biến đổi thực tại (J.Moellmann) Bởi vậy, văn hóa là hình thái phù hợp mực, hình thái trị giá và hình thái biểu tượng do con người sáng tạo nên nhằm giúp con người có những điển quy để hành động, nhân thức và chuyển biến thực tại. Trong nơi lý tưởng, những hình thái chuẩn mực, giá trị và biểu tượng này được khắc họa bởi nghệ thuật, bởi vì thông qua nghệ thuật, văn hóa trở cần có tính sáng tạo cao hơn.
Nhân phát động thập kỷ tăng trưởng văn hóa, ông Tổng giám đốc UNESCO F.Mayor đang mang ra định nghĩa: “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và trong bây giờ. Qua các thế kỷ hoạt động sáng tạo ấy vừa mới hình thành nên một nền tảng giá trị, các truyền thống và các thị hiếu – những thành phần dựng lại các đặc tính riêng của mỗi dân tộc”(3). định nghĩa này bấm mạnh vào hoạt động sáng tạo của các cộng đồng người gắn liền với tiến trình phát triển có tính lịch sử của mỗi cộng đồng trải qua một thời gian dài tạo nên những giá trị có tính nhân văn phổ quát, song song có tính đặc thù của mỗi cộng đồng, bản sắc riêng của từng dân tộc. khái niệm còn cho thấy không hề hoạt động nào của con người cũng tạo nên giá trị kiến thức, chỉ có các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện nay, trải qua thời gian dài hàng thế kỷ mới xây dựng được các trị giá, các truyền thống và các thị hiếu… cái mà người xem có thể coi là văn hóa của mỗi tộc người. định nghĩa này còn nhấn mạnh tính riêng của mỗi nền văn hóa, cổ vũ cho việc giữ gìn tính đa dạng của kiến thức toàn cầu, lời khuyên nguy cơ suy thoái của các nền kiến thức dễ bị thương tổn trong làn sóng thế giới hóa, hệ lụy của cách thức tăng trưởng kinh tế k tôn trọng thành phần văn hóa vì con người.
tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào định nghĩa có tính khái quát này, trong hoạt động cai quản nhà nước về văn hóa, chúng ta easy bị hiểu một phương pháp sai lạc: thống trị văn hóa là quản lý các hoạt động sáng tạo và thu hẹp thêm nữa là quản lý sáng tác văn học nghệ thuật. thực tế cai quản văn hóa chẳng hề chỉ có thế. Để đủ sức Nhìn nhận văn hóa một hướng dẫn thiết thực hơn, chúng tôi chú ý tới khái niệm của Hồ Chí Minh: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, luật pháp, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật; Những công cụ sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các bí quyết dùng. toàn bộ những sáng tạo và phát minh ấy tức là văn hóa”(4). khái niệm giúp chúng ta bổ sung đa số hơn phương pháp hiểu kiến thức với nghĩa khái quát và cả với nghĩa cụ thể của từng lĩnh vực hoạt động và các nguyên nhân khác gắn liền với đời sống thường nhật của con người. Suy cho cùng, mọi hoạt động của con người trước hết đều vì lẽ sinh tồn cũng giống như mục tiêu của cuộc đời, những hoạt động sống đó trải qua thực tế và thời gian được lặp đi, lặp lại thành những thói quen, tập quán, chắt lọc thành những chuẩn mực, những trị giá vật chất và tinh thần được tích lũy, lưu truyền từ đời này qua đời không giống thành kho báu quý giá đưa bản sắc riêng của mỗi cộng đồng, góp lại mà thành di sản kiến thức của toàn nhân loại.
kiến thức là định nghĩa đa nghĩa. bên cạnh đó từ góc độ tiếp cận về thống trị, đủ sức dễ dàng nhận thấy hai nguyên nhân cần thiết khi đề cập tới khái niệm văn hóa, đó là: hoạt động kiến thức và trị giá kiến thức. Trong thống trị kiến thức, mẹo tiếp cận này giúp phân loại các vấn đề cần cai quản có tính nền tảng, và đương nhiên hoạt động cai quản sẽ cụ thể, kết quả hơn.
Hoạt động kiến thức
Xét theo nghĩa rộng thì mọi hoạt động vì lẽ sinh tồn và mục đích cuộc sống đều có thể coi là hoạt động kiến thức. Cấy lúa, trồng khoai hay săn bắn, hái lượm đều vì lẽ sinh tồn của các cộng đồng người vì thế nó là hoạt động kiến thức. bên cạnh đó, xã hội loài người ngày càng tăng trưởng, các hoạt động của con người ngày càng thông dụng với mục đích rất không giống nhau, thậm chí trái ngược nhau giữa các member trong cộng đồng và giữa các cộng đồng. Nếu coi mọi hoạt động sống của con người đều là kiến thức dễ dẫn đến sự đồng nhất những hoạt động thuần túy giúp sức sự tồn tại của con người với nhân cách là một sinh thể sống với các hoạt động đưa tính đặc thù chỉ con người mới có, thậm chí sẽ không phân biệt được những hoạt động có tính nhân văn và những hoạt động phản nhân văn. Cùng với sự phát triển không gian, khoa học thế giới nói chung và kiến thức học nói riêng cũng phát triển và đòi hỏi sự phân chia có tính đặc thù hơn cho các hoạt động của con người. Chính cho nên, các hoạt động mang tính sáng tạo, cung cấp nhu cầu k chỉ vật chất mà còn trí não của con người mới được coi là những hoạt động văn hóa. Những hoạt động giống như vậy cũng không giống nhau trong các cộng đồng người và hoàn cảnh lịch sử không giống nhau. Điều đó cho phép hiểu rằng, không phải toàn bộ các hoạt động sống của con người đều là hoạt động kiến thức.
trị giá văn hóa
trước nhất cần phân biệt giá và giá trị. Vật nào đó đủ sức đem bàn luận, mua, bán đều có một giá. Ngay các món hàng văn hóa như phim, ảnh, tranh, tượng, sách, băng, đĩa nhạc… đều đủ sức đem đàm đạo, kinh doanh. vì vậy chúng có giá được quy đổi bằng tiền tệ, vàng bạc hoặc các vật ngang giá không giống. Đó là giá chứ chẳng phải là giá trị. Có giá cao phần nào phản ánh giá trị nhưng chẳng phải là all trị giá của chúng. E.Kant (1724-1804) cho rằng: Vật nào đủ nội lực đem bàn luận được đều có một giá, duy có một số vật không quét gì thay thế được thì có một giá trị. Quả thật, có những thứ k thể đem đàm đạo, mua, bán vì chúng không có giá, khó đủ nội lực định giá theo phương pháp quy đổi bằng tiền tệ, vàng bạc hay các vật ngang giá khác. Ví giống như tình bạn, tình yêu, lòng yêu nước, các di sản văn hóa có giá trị của các cộng đồng, quốc gia, dân tộc… k thể thay thế bằng bất kỳ vật ngang giá nào khác, bởi nó là những giá trị xã hội được một cộng đồng, đất nước, dân tộc thừa nhận, tôn thờ và khát khao vươn tới. Nó điều chỉnh hành vi của mỗi thành viên và của cả cộng đồng xã hội ấy. Nó là những giá trị thế giới mà giá trị kiến thức chỉ là bộ phận. trị giá văn hóa đề cập ở đây giới hạn trong phạm vi trị giá di sản kiến thức vật thể và phi vật thể. cai quản trị giá kiến thức được hiểu là cai quản các di sản văn hóa vật thể và di sản kiến thức phi vật thể.
Trên thực tế đời sống thế giới, khó có thể chỉ ra một di sản văn hóa nào thuần túy chỉ là vật thể hay phi vật thể. Ví như di sản kiến thức Văn Miếu – Quốc Tử Giám (Hà Nội) được xếp hạng giống như là một di sản kiến thức vật thể. không những thế, ý nghĩa vật thể của các bia tiến sĩ không nhiều, nó chỉ như là các chứng tích khẳng định VN có một nền dạy bảo và khoa cử lâu đời. Chính ý nghĩa ngoài vật chất ấy là căn cứ để UNESCO công nhận nó là di sản văn hóa, ký ức nhân loại. Về phương diện vật chất, với điều kiện kỹ thuật và tài chính bây giờ, người đọc đủ nội lực cho chạm khắc các bia đá xinh hơn nhiều, nhưng có xinh đến đâu cũng không thay được các bia tiến sĩ trong Văn Miếu – Quốc Tử Giám. trái lại, chân trời kiến thức cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO xác nhận là di sản kiến thức phi vật thể toàn cầu, nó chẳng hề là di sản văn hóa vật thể, nhưng nếu thiếu vắng những cái cồng, chiêng nguyên bản đưa ý nghĩa vật chất thì cái ý nghĩa cao siêu khác cũng khó mà tồn tại. như vậy, sự phân chia kiến thức vật thể và phi vật thể chỉ mang ý nghĩa tương đối, di sản kiến thức vật thể và phi vật thể cũng vậy. Bởi vậy, người sử dụng thống trị cần nắm những đặc điểm của di sản văn hóa vật thể, phi vật thể để phân loại chúng trong hệ thống các di sản giúp cho việc thống trị được thuận lợi và hiệu quả.
Luật Di sản kiến thức, tại Điều 1 đã quy định cụ thể giống như sau: “Di sản kiến thức quy định tại luật này bao gồm di sản kiến thức phi vật thể và di sản kiến thức vật thể, là sản phẩm trí não, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa thế giới chủ nghĩa Việt Nam”.
Cán bộ văn hóa – xã hội các cấp cần đọc kỹ Luật Di sản kiến thức để biết về một số khái niệm liên quan đến di sản giống như di sản kiến thức phi vật thể, di sản kiến thức vật thể, di tích lịch sử – kiến thức, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia…
cai quản nhà nước về kiến thức
Về cơ bản, thống trị nhà nước về văn hóa là sự tác động tiếp tục, có tổ chức, có chủ đích của Nhà nước bằng nền móng luật pháp và bộ máy nhằm tăng trưởng văn hóa, điều chỉnh hoạt động của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân trong ngành văn hóa và liên quan.
Từ phương pháp hiểu trên, có thể sử dụng rõ thêm nội hàm cai quản nhà nước về văn hóa, các thành tố cấu thành hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa.
Thứ nhất, chủ thể quản lý nhà nước về kiến thức là Nhà nước, được đơn vị thống nhất từ trung ương đến địa phương, quyền cai quản được phân cấp: cấp trung ương, cấp tỉnh (tỉnh và các tp trực thuộc trung ương), cấp huyện (huyện thuộc tỉnh, quận thuộc thành phố), cấp xã (xã thuộc huyện, phường thuộc quận). thống trị nhà nước về văn hóa ở cấp nào thì cơ quan nhà nước cấp ấy là chủ thể cai quản. thống trị nhà nước về kiến thức ở cấp xã thì UBND xã là chủ thể thống trị nhà nước. Công chức văn hóa – không gian xã được giao nghĩa vụ thống trị nhà nước về kiến thức giúp UBND xã đủ nội lực được coi là chủ thể thống trị nhà nước về kiến thức trên địa bàn xã.
Thứ hai, khách thể thống trị nhà nước về kiến thức là kiến thức và các cơ quan, đơn vị, một mình hoạt động trong ngành văn hóa hoặc có liên quan đến ngành nghề kiến thức. văn hóa với nhân cách là khách thể quản lý được hiểu theo nghĩa cụ thể là: các hoạt động văn hóa (trong đó có các dịch vụ kiến thức, hoạt động sáng tạo…) và các giá trị văn hóa (cụ thể là các di sản kiến thức vật thể và phi vật thể). Mặt không giống, theo sự phân công trong hệ thống các cơ quan nhà nước các cấp, chẳng hề tất cả hoạt động văn hóa hiểu theo nghĩa rộng đều do ngành kiến thức cai quản. kiến thức giáo dục, khoa học công nghệ… do cơ quan giáo dục, khoa học công nghệ quản lý.
Thứ ba, mục đích cai quản nhà nước về kiến thức là giữ gìn và phát huy những trị giá văn hóa truyền thống, tiếp thụ tinh hoa văn hóa nhân loại, thiết lập nền kiến thức Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần nâng cao đời sống vật chất và trí não của nhân dân. ngoài ra, trong hoạt động thống trị nhà nước về văn hóa ở từng cấp, từng địa phương, từng hoạt động cụ thể thì mục tiêu thống trị nhà nước về kiến thức phải được xác định cụ thể sát với yêu cầu Nhiệm vụ và hoàn cảnh cụ thể. gợi ý, thống trị nhà nước chương trình mục tiêu thiết lập đời sống văn hóa ở cơ sở thì cấp trung ương mục đích là gì, cấp tỉnh, quận huyện, xã phường là gì phải được định hình một cách cụ thể. Có như vậy hoạt động quản lý mới hiệu quả.
Thứ tư, cơ sở pháp lý của cai quản nhà nước về văn hóa là hiến pháp, luật và các văn bản quy phạm luật pháp không giống. giống như vậy thống trị nhà nước nói chung và thống trị nhà nước về văn hóa nói riêng có tool là hệ thống luật và các văn bản có tính pháp quy. thống trị bằng pháp luật chứ không hề bằng ý chí của nhà cai quản.
Thứ năm, cách thức thống trị là sự ảnh hưởng tiếp tục, có đơn vị, có chủ đích chứ không phải là việc sử dụng có tính thời vụ, cũng không phải là sự thụ động của nhà cai quản, càng chẳng hề là hoạt động đơn lẻ, tùy tiện của nhà thống trị.
Người sử dụng công tác quản lý nhà nước về văn hóa luôn tự đặt và trả lời câu hỏi: ai là người cai quản, cai quản ai và thống trị cái gì, quản lý vì cái gì, tool nào để quản lý? Ngoài 4 câu hỏi cơ bản trên, người quản lý có trải nghiệm còn biết đặt và trả lời một số câu hỏi có tính nghiệp vụ không giống mới đủ sức thực thi Nhiệm vụ quản lý có kết quả.
2. Một số vấn đề thống trị nhà nước về kiến thức trong thời kỳ đổi mới
quản lý nhà nước về văn hóa trong điều kiện tăng trưởng kinh tế đối tượng là một trong những ngành có rất nhiều vấn đề đặt ra. Việc dựng lại vấn đề nào là trọng tâm hiện tại có ý nghĩa cần thiết, sử dụng cơ sở cho việc mang ra các phương pháp hữu hiệu nâng cao kết quả thống trị.
chủ đề nhận thức: Trong thực tế hoạt động nhiều năm qua, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, một vấn đề lớn đặt ra là phát triển kiến thức chưa đồng bộ với phát triển kinh tế kéo đến nhiều hệ lụy về tăng trưởng không gian, đồng thời sử dụng cho phát triển kinh tế k bền vững. tại sao chính của vấn đề đó là do nhận thức chưa đầy đủ về kiến thức trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt, sự khuyết điểm trong hoạt động quản lý nhà nước về kiến thức.
Đổi mới kinh tế đi đầu một bước: Sự sáng tạo trong môi trường cụ thể ở nước ta chỉ đủ nội lực đạt hiệu quả với điều kiện phải nhận thức đúng kinh tế đi đầu một bước để thường xuyên đổi mới văn hóa không gian đồng bộ cùng với phát triển kinh tế. tiên phong một bước không có nghĩa là đổi mới kinh tế xong mới đổi mới kiến thức, hy sinh kiến thức để phát triển kinh tế. Trên thực tế, nhiều nơi, nhiều lúc yếu tố kiến thức vừa mới bị coi nhẹ vì tăng trưởng kinh tế. Nhìn tổng thể, đổi mới kiến thức chưa theo kịp đổi mới kinh tế.
Vai trò thống trị nhà nước về văn hóa chưa được nhận thức đúng đắn: Trong không gian có người cho rằng văn hóa là nhu cầu của con người, nó phát sinh tăng trưởng theo nhu cầu tự nhiên, hãy để nó tăng trưởng theo quy luật vốn có của nó. Những người có quan niệm như vậy k nhiều, nhưng quan niệm ấy lại là cái cớ để tồn tại những lệch lạc trong Nhìn nhận thống trị nhà nước về văn hóa: quản lý hay k thống trị thì văn hóa cũng cứ tăng trưởng theo đường đi của nó.
Đổi mới nhận thức về cai quản nhà nước nguy cơ so với tăng trưởng văn hóa: Các hoạt động kiến thức ngày càng đa dạng, các dịch vụ văn hóa cũng tăng trưởng khá mạnh, một mặt cung cấp nhu cầu của đời sống xã hội, mặt khác cũng gây nhiều hệ lụy với những đánh giá không giống nhau, thậm chí trái ngược nhau, gây tâm trạng bất an trong dư luận giải thế giới. thống trị nhà nước k theo kịp thành công, thích hợp đó còn tồn tại cách hiểu sai quản lý đến đâu, phát triển đến đó, dẫn đến nhận thức lệch lạc, quy cai quản nhà nước vào một việc cho và không cho (sinh ra tệ xin cho với bao hệ lụy đi kèm), kéo đến phương pháp cai quản giới hạn thành công, k thống trị được thì cấm.
Nguồn: vhnt